Cận hiện đại Lịch_sử_quan_hệ_hai_bờ_eo_biển_Đài_Loan

Thực dân phương Tây

Năm 1604, lực lượng Hà Lan dưới quyền Wybrand van Warwijck chiếm lĩnh Bành Hồ, Thẩm Hữu Dung đem 50 thuyền (ước tính 2.000 người) đến Bành Hồ, yêu cầu Warwijck rời đi. Do binh lực giữa hai bên có chênh lệch lớn, đến ngày 15 tháng 12 Warwijck rời Bành Hồ, chuyển sang Đài Loan tìm cứ điểm. Sự việc này được ghi lại trên "bia Thẩm Hữu Dung đẩy lui rợ hồng mao" tại cung Thiên hậu Bành Hồ[42]. Năm 1622, Toàn quyền Đông Ấn Hà LanJan Pieterszoon Coen phái Cornelis Reijersen đến Bành Hồ, đồng thời lập ra thành luỹ để làm cứ điểm mậu dịch[43]. Năm 1624, tướng lĩnh của nhà Minh là Du Đại Du đem quân bao vây người Hà Lan, trải qua tám tháng chiến đấu, người Hà Lan phải rời khỏi Bành Hồ, chuyển hướng đến Đại Viên, Đài Loan dựng nên thành Zeelandia để làm cứ điểm[44]. Công ty Đông Ấn Hà Lan chiêu mộ người Hán từ duyên hải Phúc Kiến và tại Bành Hồ đến Đài Loan để canh tác, trong đó rất nhiều người về sau định cư tại Đài Loan[43]. Trong "An Bình Nhan thị tộc phổ", "Đông Thạch Phần Dương Quách thị tộc phổ" đều viết rằng có gia đình chuyển đến Đài Loan[45].

Đài Loan do Hà Lan, Tây Ban Nha và Vương quốc Đại Đỗ thống trị.

Tương truyền vào năm 1621, một người quê Chương Châu tên là Nhan Tư Tề từ Nagasaki, Nhật Bản đến Đài Loan, lập trại tại khu vực Chư La Sơn, làm nghề cày cấy, săn bắn và mua bán. Sau khi tin tức được truyền về Đại lục, đã thu hút nhiều dân nghèo Chương Châu, Tuyền Châu vượt biển đến nương nhờ, số người đạt đến 3.000. Năm 1625, Nhan Tư Tề bệnh chết, Trịnh Chi Long kế thừa sự nghiệp của ông. Năm 1628, Trịnh Chi Long nhận chiêu an của triều đình Minh, đưa hơn ba vạn bộ thuộc trở về Đại lục, nhậm chức "Ngũ Hổ du kích tướng quân" trú tại An Hải[chú thích 3]. Khi Phúc Kiến xảy ra nạn đói, Trịnh Chi Long từng đưa vài vạn dân đói đến Đài Loan mưu sinh, chi phí liên quan được trả lại cho Trịnh Chi Long dưới dạng tô thuế. Ngoài ra, Trịnh Chi Long phá vỡ chính sách hải cấm chính thức, hầu như thao túng mậu dịch giữa duyên hải Trung Quốc đại lục và Đài Loan, Macao, Nhật Bản, Philippines.[46]

Năm 1626, một người Tây Ban Nha là Antonio Carreño de Valdes lãnh đạo hạm đội xuất phát từ Manila, Philippines đi sát theo bờ biển phía đông Đài Loan đến đảo Kê Lung trong vịnh Kê Lung, lập nên thành San Salvador để làm trung tâm thống trị[47]. Mặc dù người Tây Ban Nha không được chấp thuận tiến hành triển khai mậu dịch chính thức với triều đình Minh, song họ dùng phương thức miễn thuế quan, miễn thuế hàng hoá, thậm chí miễn kiểm tra nhập quan nhằm thu hút giới buôn lậu đến Kê Lung kinh doanh[48].

Năm 1633, Công ty Đông Ấn Hà Lan lấy Đài Loan làm căn cứ để tiến hành phong toả, cướp bóc duyên hải Phúc Kiến, thuỷ quân Minh do Trịnh Chi Long lãnh đạo đã đánh bại liên quân Công ty Đông Ấn Hà Lan và hải tặc, sử gọi là hải chiến Minh-Hà Lan thời Sùng Trinh[49]. Người Hán tại Đài Loan từng phản kháng sự thống trị của Hà Lan, trong đó có sự kiện Quách Hoài Nhất năm 1652[50]. Đương thời có 4.000-5.000 người Hán tham dự cuộc khởi nghĩa này, ước tính chiếm 1/4 tổng số người Hán tại Đài Loan[51], trải qua 12 năm thì bị trấn áp, có 3.000-4.000 người Hán tử vong[52].

Trương Đình Ngọc thời Thanh có miêu là cương vực Đài Loan trong "Minh sử " là "đất ấy bắc từ Kê Lung, nam đến Lãng Kiệu, có thể hơn ngàn dặm; đông từ Đa La Mã, tây đến Vương Thành, có thể hơn chín trăm dặm"[53]. Điều đáng chú ý là Kê Lung cùng với Lưu Cầu, Luzon, Brunei đều được ghi trong thiên "liệt truyện thứ 211 - ngoại quốc 4", không nằm trong bản đồ triều Minh[54].

Trịnh Thành Công đẩy lui người Hà Lan

Tượng mô tả việc người Hà Lan đầu hàng Trịnh Thành Công

Năm 1644, nhà Minh diệt vong, tuy nhiên tông thất nhà Minh lập nên chính quyền Nam Minh. Trong đó, Đường vương Chu Duật Kiện do anh em Trịnh Chi Long và Trịnh Hồng Quỳ ủng hộ xưng đế tại Phúc Châu vào năm 1645. Năm 1646, quân đội nhà Thanh tiến vào Phúc Kiến, Trịnh Chi Long đầu hàng nhà Thanh, tuy nhiên con ông là Trịnh Thành Công chạy đến Kim Môn. Năm 1647, Trịnh Thành Công chính thức thề phản Thanh, di chuyển chiến đấu tại duyên hải đông nam Trung Quốc đại lục hơn mười năm[55], đồng thời nhiều lần bang trợ tông thất nhà Minh và dân chúng vượt biển sang định cư tại Đài Loan[chú thích 4], được Vĩnh Lịch Đế phong là Diên Bình vương. Do người Hà Lan thường cướp bóc thương thuyền của người Hán, trong thời gian từ năm 1656 đến năm 1660 Trịnh Thành Công hai lần cảnh cáo người Hà Lan đình chỉ cướp đoạt thương thuyền.[56].

Tháng 4 năm 1661, Trịnh Thành Công đem 25 ngàn tướng sĩ cùng vài trăm chiến hạm tiến quân đến Đài Loan, bao vây pháo đài Zeelandia, buộc Công ty Đông Ấn Hà Lan phải ký kết đầu hàng vào ngày 1 tháng 2 năm 1662[57]. Trịnh Thành Công lập phủ Thừa Thiên tại Đài Loan, dự tính phản Thanh phục Minh, song không lâu thì mất[58]. Sau khi Trịnh Kinh kế vị, ông lo ngại tính chính thống thống trị không đủ, do đó vào năm 1663 đón Ninh Tĩnh vương Chu Thuật Quế từ Kim Môn đến Đài Loan, đồng thời đổi tên Đài Loan thành Đông Ninh[59], vẫn lấy lịch pháp theo nhà Minh[60], lập Khổng miếu tại Đài Nam vào năm 1665[61].

Ngày 21 tháng 4 năm 1674, Tĩnh Nam vương Cảnh Tinh Trung của nhà Thanh khởi binh phản Thanh, mời Trịnh Kinh tây chinh. Trịnh Kinh sau khi vượt biển đã yêu cầu với Cảnh Tinh Trung được giữ Chương Châu và Tuyền Châu, sau khi bị từ chối thì xuất binh chiếm lĩnh Hải Trừng và Đồng An, hai bên bắt đầu trở nên thù địch. Tuy nhiên, Tuyền Châu, Chương Châu và Triều Châu lần lượt nương nhờ Trịnh Kinh, Cảnh Tinh Trung thấy tình thế như vậy thì bèn đem quân tấn công Tuyền Châu, song lại bị Lưu Quốc Hiên đẩy lui. Năm 1675, Cảnh Tinh Trung và Trịnh Kinh đàm phán, hai bên lấy Phòng Đình làm ranh giới, phần phía bắc thuộc Cảnh Tinh Trung, phần phía nam thuộc Trịnh Kinh. Năm 1676, Trịnh Kinh đánh bại Bình Nam vương Thượng Chi Tín, chiếm lĩnh Huệ Châu. Trịnh Kinh sau khi có được bốn châu phủ lại đánh hạ được Đinh Châu, Cảnh Tinh Trung buộc phải đầu hàng nhà Thanh. Sau đó, Trịnh Kinh một mình đối đầu với quân đội nhà Thanh, kết quả là liên tiếp thất bại và phải thoái lui, cuối cùng phải rút về Hạ Môn.

Năm 1677, nhà Thanh lại triển khai hoà đàm với Trịnh Kinh, Khang thân vương Kiệt Thư của nhà Thanh hứa hẹn rằng nếu Trịnh Kinh rút khỏi các đảo tại duyên hải Trung Quốc, nhà Thanh sẽ đồng ý để Đông Ninh thành nước phiên thuộc của nhà Thanh giống như Triều Tiên, đồng thời thông thương với Đông Ninh, vĩnh viễn không nghi kị. Năm 1678, tướng lĩnh nhà Thanh là Lại Thấp đưa thư cho Trịnh Kinh, trong đó viết rằng nếu quân họ Trịnh đồng ý rút về giữ Đài Loan, thì họ Trịnh sẽ vĩnh viễn chiếm hữu Đài Loan, địa vị tương đồng với Triều Tiên, không cần phải cạo đầu và đổi trang phục, việc xưng thần nạp cống hoàn toàn là tự nguyện. Tuy nhiên, Trịnh Kinh muốn Hải Trừng là thị trường chung, khiến đàm phán bị phá vỡ[62]. Năm 1680, Trịnh Kinh chiến bại, rút từ Hạ Môn về Đài Loan[63]. Từ đó, Trịnh Kinh nản chí, đem chính sự giao hết cho Thế tử Trịnh Khắc TangTrần Vĩnh Hoa. Ngày 17 tháng 3 năm 1681, Trịnh Kinh mất, Phùng Tích Phạm giết Trịnh Khắc Tang và lập Trịnh Khắc Sảng, khiến cho quốc chính ngày càng tệ hại, lòng người phân tán.[62]

Nhà Thanh sáp nhập Đài Loan

Phạm vi phân chia hành tính của tỉnh Phúc Kiến Đài Loan năm 1894, màu đen là vùng dất thổ dân chưa khống chế, màu xám là phạm vi được tuyên bố của châu trực thuộc Đài Đông.

Ngày 10 tháng 7 năm 1683, theo lệnh của Khang Hy Đế, Thi Lang đem hai vạn quan binh, hơn 200 chiến thuyền tiến đánh Đài Loan. Trải qua bảy ngày giao chiến, quân tinh nhuệ của họ Trịnh bị tiêu diệt toàn bộ[64]. Ngày 17 tháng 9, Trịnh Khắc Sảng chính thức giao thư đầu hàng, đến ngày 3 tháng 10 thì quân Thanh tiến vào Đài Loan tiếp nhận đầu hàng[57]. Năm sau, nhà Thanh lập phủ Đài Loan, quản lý ba huyện là Đài Loan, Phụng Sơn, Chư La, phủ này lệ thuộc đạo Hạ Đài của tỉnh Phúc Kiến, đồng thời công bố luật lệ về cư trú tại Đài Loan, khống chế nghiêm ngặt số lượng người Hán từ Đại lục sang Đài Loan[65]. Vào đầu thời gian lập phủ Đào Loan, triều đình Thanh trao quyền cho tuần phủ của Phúc Kiến điều động quan viên giữa nội địa Phúc Kiến và Đài Loan, do vậy vào thời Thanh đa phần quan lại Đài Loan là người Phúc Châu[66].

Năm 1721, Chu Nhất Quý tự lập làm vương tại Đài Loan, đặt quốc hiệu là "Đại Minh", song được không lâu thì bị quân Thanh tiêu diệt. Năm 1731, người Taokas thuộc thổ dân Đài Loan phát động hành động vũ trang chống chính phủ tại Đại Giáp Tây Xã. Tổng đốc Hác Ngọc Lân của Phúc Kiến phái Tổng binh Đài Loan Vương Quận đi giám sát việc trấn áp, đồng thời điều sáu nghìn quan binh từ Đại lục sang Đài Loan chinh phạt. Sự kiện diễn ra trong bảy tháng, cuối cùng các tù trưởng Đài Loan mang mọi người ra hàng[67], mười ba tù trưởng bị chém đầu[68].

Sau khi nhà Thanh cai trị Đài Loan, mậu dịch giữa Đại lục và Đài Loan trở nên hưng thịnh hơn. Đương thời, vật phẩm xuất khẩu chủ yếu của Đài Loan là gạo, da hươu và đường mía, vật phẩm nhập khẩu là hàng dệt, thuốc và các nhu yếu phẩm khác, cảng mậu dịch chủ yếu là phủ thành (nay là An Bình, Đài Nam), Lộc Cảng (nay là Lộc Cảng, Chương Hoá) và Mãnh Giáp (nay là Vạn Hoa, Đài Bắc), dân gian có câu "nhất phủ nhị Lộc tam Mãnh Giáp".[69] Vào giữa thời Thanh, có nhiều di dân đến Đài Loan, giữa các nhóm đến trước và đến sau tồn tại nhiều xung đột lợi ích. Ví dụ giữa người Mân Nam từ Phúc Kiến và người Khách Gia, người Triều Châu từ Quảng Đông xảy ra chiến đấu Mân-Việt; giữa người Tuyền Châu và người Chương Châu xảy ra chiến đấu Tuyền-Chương; hay là giữa các môn phái hí khúc[70]. Tuy nhiên, trong thời gian này các nhóm cư dân tại Đài Loan cũng có hợp tác với nhau, như vào năm 1796 khi Ngô Sa khai khẩn Cáp Tử Nan, đều có người gốc Chương Châu, Tuyền Châu và Khách Gia cùng tham gia khai khẩn.[71]

Sau Chiến tranh Nha phiến lần thứ hai năm 1860, triều đình Thanh đồng ý mở cửa cảng An Bình và Đạm Thuỷ tại Đài Loan để thông thương, không lâu sau lại mở cửa cảng Đả Cẩu và Kê Lung. Năm 1874, Nhật Bản đem quân đến Đài Loan tạo ra sự kiện Mẫu Đơn Xã. Năm 1875, triều đình Thanh cử Thẩm Bảo Trinh làm khâm sai đại thần sang giám sát Đài Loan, đồng thời điều Đường Định Khuê đem 6.500 binh sĩ Hoài quân đóng tại Từ Châu đến Đài Loan đồn trú. Cuối cùng, do Thanh-Nhật ký kết "Chuyên ước Bắc Kinh" nên tạm bình ổn[72]. Sự kiện ngoại giao lần này thúc đẩy triều đình Anh bãi bỏ lệnh cấm nhân dân Trung Quốc đại lục sang Đài Loan khai khẩn trồng trọt, do vậy Đài Loan mở cửa toàn diện[73].

Trong thời gian Chiến tranh Pháp-Thanh năm 1884, Amédée Courbet dẫn quân Pháp chiếm lĩnh Cơ Long, tiến công Đạm Thuỷ, phong toả eo biển Đài Loan, đồng thời quấy nhiễu các tỉnh duyên hải Trung Quốc[74]. Ngày 29 tháng 7 năm 1885, Tả Tông Đường nêu lên việc phải nhanh chóng chuyển Đài Loan thành một tỉnh[75]. Tháng 10 cùng năm, triều đình Thanh lập ra tỉnh Phúc Kiến Đài Loan, quản lý phủ Đài Loan và phủ Đài Bắc của tỉnh Phúc Kiến trước đây[76] cựu Tuần phủ Phúc Kiến là Lưu Minh Truyền chuyển sang giữ chức tuần phủ của Đài Loan[77], kinh phí lập tỉnh Đài Loan chủ yếu do Phúc Kiến phụ trách[66]. Lưu Minh Truyền sau khi nhậm chức đã tiến hành mở rộng việc phủ dụ thổ dân, lập thêm quận huyện, đồng thời xúc tiến một loạt cải cách kiểu phương Tây[78], xây dựng Đài Loan thành tỉnh có trình độ hiện đại hoá cao nhất của Đại Thanh vào đương thời[79].

Nhà Thanh nhượng Đài Loan cho Nhật Bản

Tình cảnh ký kết Điều ước Mã Quan do người Nhật vẽNgày 25 tháng 10 năm 1945 tại Đài Bắc, Trung Hoa Dân Quốc tiếp nhận đầu hàng của Nhật Bản

Trong Chiến tranh Thanh-Nhật 1895, nhà Thanh bị Nhật Bản đánh bại, đến ngày 17 tháng 4 năm 1895 phải ký kết Điều ước Mã Quan, cắt nhượng Đài Loan và Bành Hồ cho Nhật Bản[66]. Tin tức này được truyền đến Đài Loan, tuần phủ đương thời là Đường Cảnh Tùng ban bố "tuyên ngôn độc lập Đài Loan Dân chủ quốc" vào ngày 25 tháng 5, song vẫn tôn nhà Thanh làm nước tông chủ. Ngày 2 tháng 6, hai bên Thanh-Nhật hoàn thành việc chuyển giao Đài Loan, đến ngày 21 tháng 10 quân đội Nhật Bản tiến vào Đài Nam, tiêu diệt chính quyền Đài Loan Dân chủ quốc[80]. Đài Loan trở thành lãnh thổ thực dân của Nhật Bản[81], cũng là căn cứ để Nhật Bản xâm lược Trung Quốc đại lục[82]. Phủ Tổng đốc Đài Loan trở thành tiên phong trong việc thực thi chính sách nam tiến của Đế quốc Nhật Bản, chuyên về chính sách đối với Phúc Kiến[83], thông qua các phương thức như lập trường học, bệnh viện, xây dựng nơi thờ phụng và kinh doanh báo chí để tiến hành thẩm thấu văn hoá tại Đại lục, có ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của xã hội Phúc Kiến cận đại[84].

Khoảng năm 1896, Tổng đốc Đài Loan Kodama Gentaro phái trụ trì chùa Lan Dương tại Nghi Lan đến Hạ Môn để bố giáo. Sau đó, tăng nhân chùa Higashi Hongan lập ra "sở bố giáo chùa Higashi Hongan Hạ Môn". Ngày 24 tháng 8 năm 1900, địa điểm này bị thiêu huỷ. Đến ngày 25, Tổng đốc Đài Loan phái lục quân vượt biển, chuẩn bị chiếm lĩnh Hạ Môn. Các cường quốc phương Tây phản ứng dữ dội, Anh, Đức, Mỹ và Nga đều đưa chiến hạm vào cảng Hạ Môn, lục quân Anh đổ bộ vào tô giới Anh, quân Nhật bị buộc phải rút lui, lịch sử gọi là "sự kiện Hạ Môn"[85].

Sau khi Trung Hoa Dân Quốc thành lập vào năm 1912, một số người Đài Loan như Tưởng Vị Thuỷ, Đỗ Thông Minh, Ông Tuấn Minh gia nhập phân hội Đài Loan của Trung Quốc Đồng minh Hội, còn từng gửi điện báo đến Hội Quốc Liên tố cáo Nhật Bản cản trở Trung Quốc thống nhất[86]. Năm 1928, Đảng Cộng sản Đài Loan được thành lập trong tô giới Pháp tại Thượng Hải, do Đảng Cộng sản Trung Quốc chỉ đạo, chủ trương lật đổ sự thống trị của Nhật Bản tại Đài Loan, lập ra nước Cộng hoà Đài Loan[87]. Sau tháng 9 năm 1931, do nhiều đảng viên bị tống giam, đảng này đình chỉ hoạt động. Năm 1934 và 1936, chính quyền tỉnh Phúc Kiến từng hai lần lập đoàn sang Đài Loan khảo sát. Khi Nhật Bản bắt đầu cai trị Đài Loan, quy mô kinh tế của Đài Loan vẫn chưa bằng Phúc Kiến. Tuy nhiên sau gần 40 năm, quy mô kinh tế Đài Loan đã vượt xa Phúc Kiến. Do đó, trong "báo cáo khảo sát Đài Loan" có kiến nghị Phúc Kiến học tập mô hình kinh tế của Đài Loan[88].

Sau khi Chiến tranh Trung-Nhật bùng phát toàn diện vào năm 1937, nhân sĩ dân gian Đài Loan sống tại Trung Quốc dưới quyền lãnh đạo của Lý Hữu Bang đã thành lập Đội Nghĩa dũng Đài Loan, tiến hành hoạt động kháng Nhật[89][90]. Ngày 23 tháng 2 năm 1938, Đội tình nguyện hàng không Liên Xô lấy danh nghĩa đại đội 1 Không quân Trung Hoa Dân Quốc tiến hành oanh tạc căn cứ hàng không Tùng Sơn Đài Bắc[91]. Ngày 9 tháng 12 năm 1941, chính phủ Quốc dân Trung Hoa Dân Quốc chính thức tuyên chiến với Nhật Bản, đồng thời tuyên bố vô hiệu hoá toàn bộ các điều ước với Nhật[92]. Ngày 25 tháng 11 năm 1943, lực lượng Hàng không Lục quân Hoa Kỳ trú tại Trung Quốc và Đoàn hỗn hợp không quân Trung-Mỹ cho 14 máy bay cất cánh từ Toại Xuyên, Giang Tây đi oanh tạc căn cứ hàng không của quân đội Nhật Bản tại Tân Trúc, phá huỷ tổng cộng 52 máy bay của Nhật[93]. Tháng 12 năm 1943, Mỹ, Anh và Trung Quốc cùng công bố Tuyên bố Cairo, quy định rằng toàn bộ lãnh thổ mà Nhật Bản cướp đoạt từ Trung Quốc, như Mãn Châu, Đài Loan, Bành Hồ cần phải được trả lại cho Trung Hoa Dân Quốc[94]. Tháng 7 năm 1945, Mỹ, Anh và Trung Quốc cùng ra Tuyên bố Potsdam, xác định điều khoản trong Tuyên bố Cairo cần phải được thi hành, là một trong các điều kiện cần thiết để Nhật Bản đầu hàng[95]. Ngày 2 tháng 9, Nhật Bản chính thức chấp thuận các điều khoản của Tuyên bố Potsdam[96], đầu hàng Đồng Minh[97].

Trung Hoa Dân Quốc tiếp quản Đài Loan

Ngày 29 tháng 8 năm 1945, Tưởng Giới Thạch bổ nhiệm chủ tịch đương thời của tỉnh Phúc Kiến là Trần Nghi làm trưởng quan hành chính tỉnh Đài Loan. Ngày 15 tháng 10, quân đội chính phủ Quốc dân đổ bộ tại cảng Cơ Long[98]. Ngày 25 tháng 10, Trung Hoa Dân Quốc chính thức tiếp quản Đài Loan, Bành Hồ, xác định ngày này là "tiết quang phục Đài Loan", song luận điểm thu hồi này tồn tại tranh luận[99]. Ngày 12 tháng 1 năm 1946, Hành chính viện Trung Hoa Dân Quốc tuyên bố nhân dân Đài Loan "vốn có quốc tịch nước ta" được khôi phục quốc tịch Trung Hoa Dân Quốc từ ngày 25 tháng 10 năm 1945[100]:61[101], song do điều ước hoà bình sau chiến tranh vẫn chưa được ký kết nên bị chính phủ Mỹ, Anh, Hà Lan, Nhật Bản phản đối[101][102][103]. Cuối tháng 2 năm 1947, các địa phương tại Đài Loan liên tiếp xảy ra xung đột giữa quân đội và dân chúng, Trần Nghi thỉnh cầu Tưởng Giới Thạch phái quân đội từ Trung Quốc đại lục sang đàn áp, lịch sử gọi là sự kiện 28 tháng 2.

Từ năm 1948 trở đi, do Quốc quân Trung Hoa Dân Quốc liên tiếp thất bại trong nội chiến trước Đảng Cộng sản Trung Quốc, Tưởng Giới Thạch bắt đầu di dời chính phủ, quân đội và gia khuyến, văn vật của Cố cung, tài sản quốc khố và tài liệu liên quan đến Đài Loan[104]. Từ năm 1945 đến năm 1950, có gần hai triệu quân dân từ Trung Quốc đại lục chuyển đến Đài Loan[chú thích 5][105]. Cộng đồng di dân đại lục này tại Đài Loan được gọi là người ngoại tỉnh, nhằm phân biệt với người bản tỉnh là những di dân đến Đài Loan từ khá sớm.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Lịch_sử_quan_hệ_hai_bờ_eo_biển_Đài_Loan http://orientaldaily.on.cc/cnt/china_world/2015011... http://www.readbooks.cc/book/11/detail_769730.htm http://www.arats.com.cn/lhstgh/gaikuang/200806/t20... http://www.coscogz.com.cn/gzyyxcw/ztzx_show.asp?Ti... http://cpc.people.com.cn/GB/64162/64165/79703/7979... http://cpc.people.com.cn/GB/64162/64170/4467358.ht... http://dangshi.people.com.cn/BIG5/n/2012/0913/c850... http://fj.people.com.cn/BIG5/n2/2016/0321/c234949-... http://theory.people.com.cn/GB/40538/3455700.html http://news.sina.com.cn/c/2004-02-23/09372935106.s...